XtGem Forum catalog
Cảm nhận về bài thơ "Tràng giang" của Huy Cận.
Gợi ý lập dàn ý Trackbacks (0) Bản in góp ý (2)

Cảm nhận về bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận

A. Hướng dẫn tìm hiểu đề



B. Hướng dẫn lập dàn ý

I. Mở bài

- “Tràng giang” là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận, được in trong tập thơ “Lửa thiêng”, xuất bản năm 1941.

- Chủ đề xuyên suốt của “ Tràng giang” là nỗi cô đơn của thân phận nhỏ bé trước không gian vô hạn và thời gian mênh mông. Qua đó phần nào thể hiện tình cảm yêu nước thầm kín của Huy Cận.

II. Thân bài

a. Cảnh dòng sông mênh mông sóng nước

- Tựa đề “Tràng giang” và câu thơ thứ nhất “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” : cách điệp vần “ang”, tràng giang tạo dư âm vang xa trầm buồn gợi lên hình ảnh dòng sông vừa dài vừa rộng với nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian và thời gian.

- “Con thuyền xuôi mái”: gợi cho ta con thuyền không ai chèo chống, trôi nổi hững hờ. Con thuyền như ngơ ngác, lạc loài giữa dòng sông mênh mông không có sự hòa hợp, tất cả đều vô định. Con thuyền phó mặc cho dòng nước đưa đẩy hay chính tác giả cũng phó mặt cho dòng đời đẩy đưa.

- “Thuyền về” – “nước lại”: thuyền và nước hoạt động trái ngược nhau " khung cảnh chia lìa li biệt.

- “ Củi một cành khô lạc mấy dòng”: dòng sông với con thuyền là những hình ảnh vốn quen thuộc của thơ ca truyền thống, nhưng sự xuất hiện của một cành “củi” mới thật lạ trong thơ Huy Cận. Hình ảnh “củi” ở đây vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho sự lẽ loi cô độc bơ vơ, vô định của thân phận bé nhỏ trước sóng nước bao la.

- “Sầu trăm ngã”: nỗi sầu lan toả chất chứa thành nỗi sầu nhân thế như dòng tràng giang cuộn chảy " nỗi sầu thiên cổ.

] Âm điệu thơ giàu tính nhạc thể hiện tâm trạng cô đơn lạc loài trước sóng nước mênh mông.

b. Nỗi buồn thấm sâu vào cảnh vật

- Bức tranh cảnh vật đầy ấp những chi tiết và hình ảnh thiên nhiên. Những hình ảnh dường như đang chuyển động. Đó là sự chuyển động có gió, sự chuyển động có nắng. Và trong sự chuyển động đó cho ta ấn tượng về sự chuyển động đến tĩnh mịch vắng lặng gần như tuyệt đối.

- “Lơ thơ” + “đìu hiu” (từ láy) " sự trơ trọi, quạnh hiu hoang vắng.

- “Đâu tiếng… chợ chiều”: âm thanh buổi tàn vọng lại càng làm tăng thêm cái vắng vẻ " lấy động tả tĩnh.

- Không gian mênh mông u buồn với “nắng xuống trời lên sâu chót vót”: không gian 3 chiều (sâu- rộng – cao) + từ ngữ độc đáo “sâu chót vót” vừa miêu tả được độ sâu của dòng sông, độ cao của khoảng cách trời đất.

] Nỗi buồn chồng chất sâu thẳm cao xa như cảnh vật trước mắt. Không gian bao la, cảnh vật quạnh hiu.

c. Tâm trạng cô đơn lạc lõng

- “Bèo dạt… nối hàng” hình ảnh ẩn dụ có tác dụng bổ nghĩa “củi một cành khô lạc mấy dòng” . Cánh bèo trôi nổi ấy được nhà thơ đặt trong sự tương phản với cảnh vật hoang sơ của đôi bờ : sự trôi nỗi lênh đênh vô định của một quần thể chứ không còn là một cá nhân trong XH. Không gian đôi bờ vắng lạnh và mở ra với cái vô hạn. Không gian thì rộng, dòng sông thì dài, cánh bèo trôi nổi…tất cả đều gợi lên sự buồn vắng, gợi lên cảnh cô đơn, gợi lên kiếp sống lạc loài. Từ tâm trạng đó nhà thơ càng khát khao, muốn được giao cảm, giao hòa với đời, với con người.

- Hai câu:

“ Mệnh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật”.

Từ ngữ phủ định “không đò”, “không cầu”: có sông nhưng không có đò, có bến chẳng có cầu, con người cảnh vật không giao hoà. Con người không tìm đến nhau, không có sự sống chỉ có thiên nhiên “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, xa vắng hoang vu. Càng tô đậm nỗi khát khao sum hợp, giao hòa.

] Nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn cuộc đời. Ẩn đằng sau ấy là khát khao giao cảm với cuộc đời của tác giả.

d. Tâm trạng nhớ quê hương

- “Lớp lớp mây…núi bạc”: thiên nhiên hùng vĩ vô tận với mây trắng đùn núi bạc lớp lớp cả một góc trời.

- Hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ” – “bóng chiều sa”: cánh chim nhỏ bé, đơn độc giữa vũ trụ bao la hùng vĩ. Thiên nhiên rộng hơn, thoáng hơn, hùng vĩ hơn và buồn hơn.

- “Lòng quê dờn dợn”: nỗi nhớ quê hương như từng cơn sóng ngầm cứ cuộn lên ầm ĩ không bao giờ dứt.

- “ Không khói …cũng nhớ nhà”: Huy Cận mượn tứ thơ của Thôi Hiệu trong bài “Hoàng hạc lâu”. Thôi Hiệu nhớ nhà vì xa quê hương, lại đang lênh đênh trên dòng sông vào buổi chiều tà. Nổi nhớ nước, nhớ quê của Huy Cận cồn cào da diết hơn cả Thôi Hiệu - tình yêu quê hương da diết, nỗi nhớ không có chất xúc tác vẫn trĩu nặng lòng.

] Tình yêu quê hương tha thiết ẩn sau nỗi sầu sông nước mênh mông.

III. Kết bài

- Bài thơ mang nỗi buồn, cô đơn nhưng đó là tâm trạng buồn cô đơn gắn với tình yêu, gắn với đất nước, quê hương. Bài thơ thể hiện cái Tôi mong muốn giao cảm , giao hòa.

- Bài thơ tiêu biểu cho phong cách Huy Cận trước cách mạng Tháng Tám.